Đức Mẹ Ba Lan (Trần Thế Miên sb63)

Đức Mẹ Ba Lan

 

Một trong những đền thánh Đức Mẹ nổi tiếng nhất ở Châu Âu nằm sâu trong lòng của quốc gia Ba Lan. Đền Thánh này đã ngự trị ở đó hằng bao thế kỷ trước và nó cũng vẫn tồn tại ở đó trong suốt thời gian của những cuộc khủng hoảng trên đất nước này.

 

Đức Mẹ Ba Lan còn có một tên gọi riêng là Đức Bà Czestochova và được sùng kính như là “Trái tim của quốc gia Ba Lan”. Đền Thánh này là nơi hành hương quốc tế, nhưng đối với người dân Ba Lan thì nó là trung tâm sống động của mọi nguồn vui và những nỗi u sầu của họ, của những niềm hy vọng và sự phấn khởi tinh thần của họ.

 

Điều làm cho đền thánh này trở thành nơi hành hương quan trọng không phải chỉ vì lịch sử của nó, nhưng còn vì tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của nó đối với Giáo Hội Công giáo Ba Lan và nền văn hóa Ba Lan. Trọng tâm của nó là một bức tượng minh họa Đức Bà Đen thành Czestochova. Bức minh họa này được đặt tại tu viện Jasna-Gora dòng Pauline tọa lạc trong thành phố ấy.

 

Bức minh họa diễn tả dung nhan sạm đen với những nét mặt u sầu, phiền muộn của Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu Hài Đồng trong vòng tay Người đang nhìn đăm chiêu xuống quốc gia Ba Lan và thế giới.

 

Theo Thánh Truyền, bức tượng minh họa này là của thánh Luca, một vị thánh truyền giáo đã chép Phúc Âm Chúa Giêsu đồng thời cũng là một họa sĩ, một nhà nghệ thuật. Thánh Truyền kể lại rằng sau khi đã chịu đóng đinh thì Đức Mẹ Maria dọn về ở với thánh Gioan tông đồ, đúng như lời Chúa Giêsu trăn trối, căn dặn trên đồi Golgotha. Đức Mẹ đã mang theo bên mình một cái mặt bàn do thánh Giuse và Chúa Giê-su đã làm cho căn nhà của các ngài. Thánh Luca đã vẽ tượng hình lên trên mặt bàn ấy và dùng Mẹ Maria làm người mẫu sống động cho ngài minh họa. Tấm hình tượng Đức Bà Đen này trong tu viên Jassna Gora bằng gỗ được dán và phủ ép lên trên mặt bằng một bức họa bằng vải dày. Bề cao của nó là một thước năm phân tây. Các nét sạm đen của nó lại càng trở nên đen đậm hơn bởi khói của quá nhiều nến sáp đã được thắp đốt liên tục chung quanh nó trong hằng bao nhiêu thế kỷ.

 

Thánh truyền thuật rằng thánh nữ Helen, thân mẫu của hoàng đế Constantino đã khám phá được bức minh họa này trong thành Giê-rusalem và đem nó về thành Constantinople năm 325 cùng với những thánh vật khác. Sau đó nó đã ở tại thủ đô Byzantine trong năm trăm năm, rồi đột nhiên người ta lại thấy nó được đem sang Ba Lan mà xưa kia đã là một phần thuộc lãnh thổ của hoàng đế Constantino. Tuy nhiên vài nhà chuyên môn tin rằng bức họa hiện thời này có lẽ đã có khởi nguyên trong thế kỷ thứ chín của nền văn hóa Hy Lạp hoặc Hy Lạp thuần túy. Dù sao đi nữa, bất kể nguồn gốc của nó là gì thì đã có nhiều chứng tích lịch sử cho thấy nó đã góp phần vào lịch sử và vận mệnh của Ba Lan.

 

Nghiên cứu các nguồn gốc lịch sử gạo cội của lịch sử Công giáo Ba Lan thì chúng ta nên trở về hậu bán thế kỷ thứ X, khi nhà cai trị của xứ sở ấy cưới một công chúa Công giáo và ông đã tin nhận đức tin Công giáo cho chính ông và cho dân chúng của ông.

 

Một số người nghĩ rằng tượng Đức Bà Đen đã được đem sang Ba Lan do gia đình của công chúa ấy sau khi đã lưu trú ở thành Constantinople sau hơn năm trăm năm. Dù sao đi nữa, người ta cũng đã biết rằng, bức tượng ấy đã trở thành một biểu tượng chính trị tôn giáo của thế kỷ mười bốn.. Trong suốt quảng thời gian của các cuộc chiến tranh vào thời đó, thì vùng Ukraine đã trở nên một phần đất của đế quốc Ba Lan hùng mạnh. Sau khi hoàng đế Casimir băng hà vào năm 1370 thì vua Louis xư Hungari đã lên kế vị ngài. Theo một câu chuyện kể, thì vua Louis đã phong cho một người cháu trai của mình làm quan Toàn Quyền cai trị Ukraine. Thật tội nghiệp cho người cháu ấy đã phải luôn luôn tìm cách chống lại những người Nga để bảo vệ lãnh thổ của mình. Ông đã chiến thắng vẻ vang và trở thành lãnh chúa của miền Belsk và sát nhập vùng đó vào đất đai của mình.. Người ta kể lại rằng một trong những việc làm chính yếu trước tiên của ông là cầu nguyện trước một bức tượng, một họa phẩm nhiệm mầu lạ lùng có tên gọi là Đức Bà Đen. Khi quân Tartar tấn công vùng Belsk thì một mũi tên của địch đã bay vào bên trong nhà nguyện và trúng vào bức tượng đó khiến cho nó bị một vết sẹo dài nơi cổ của Đức Mẹ Đồng Trinh. Một lần nữa, ông hoàng ấy lại chiến thắng rực rỡ, và ông đã quyết định cho di chuyển bức tượng về nơi sinh quán của mình, thành phố Opala. Trên đường đi, ông hoàng và đoàn tùy tùng phải dừng lại để nghỉ đêm ở thành Czestochova. Bức tượng họa đã được đặt trong một ngôi thánh đường địa phương để dân chúng trong phố đến cầu nguyện suốt đêm.

 

Câu chuyện kể rằng sáng hôm sau các con ngựa kéo của vị lãnh chúa đã không chịu nhúc nhích di chuyển dầu họ đã tìm đủ mọi cách để dụ dỗ chúng tiến tới. Và ngay cả chiếc xe đặt bức tượng cũng đã không xê dịch, chuyển động lăn bánh được, mặc dù những người mạnh mẽ nhất đã cố đẩy nó tới trước. Rồi ông hoàng đã kể cho mọi người biết ông đã chiêm bao thấy một thiên thần bảo ông rằng Đức Mẹ đã muốn ở lại thành Czestocova. Ông nói tiếp rằng các thái độ của các con ngựa và sự kiện chiếc xe để bức tượng họa đã không thể lăn bánh di hành được chứng tỏ cho thấy giấc chiêm bao của ông là một lời nhắn nhủ đích thật của Đức Chúa Trời. Vì vậy, Đức Bà Đen đã ở lại đó một cách bất ngờ năm 1383 và đã được đặt tại tu viện Jasna Gora. Quốc gia Ba Lan mừng kính ngày 26 tháng tám năm 1382, đó cũng là ngày bức tượng họa ấy được đặt vào trong ngôi thánh đường gỗ đơn sơ đó.

 

Danh tiếng của Đức Bà Đen nhiệm mầu được nhanh chóng truyền tụng khắp nơi và tu viện ấy đã phát triển thêm nhiều nhờ vào số người đông đúc kéo đến hành hương kính viếng Đức Mẹ Đồng Trinh. Nhưng sự nổi tiếng ấy cũng đã làm cho tu viện trở thành mục tiêu thường xuyên của các băng đảng trộm cướp lớn ở các xứ miền gần đó. Năm 1430, bọn cướp xâm nhập vào tu viện và định chiếm đoạt một số đồ vật quý giá của tu viên, nhưng bị thất bại. Bọn chúng bực tức và chửi bới thóa mạ bức tượng họa một cách rất thậm tệ. Chúng ném tượng xuống đất, nhảy lên nó và dùng ngựa để dày xéo nó. Vì vậy bức tượng đã bị gãy ra thành mấy mảnh, nhưng phần trung tâm ở giữa có khuôn mặt Đức Mẹ thì vẫn còn nguyên vẹn, không hề hấn gì. Bọn cướp liền lấy gươm xẻo vào khuôn mặt và để lại mấy vết toạc sâu nơi má phải của bức họa. Mấy vết toạc này tồn tại trong một thời gian lâu dài..

 

Lúc bấy giờ, quan Toàn Quyền cai trị xứ Ba Lan là Công chúa Jadwia, em gái út của vua Louis. Công Chúa này có lòng kính mến Đức Bà Đen một cách đặc biệt. Trong lễ Đăng quang của bà, bà nguyện xin Đức Mẹ hãy nhận lấy và đặt để Ba Lan dưới sự che chở đặc biệt của Người. Về sau, công chúa đã kết hôn với tiểu vương Jagiello xứ Lithuania. Ông này đã trở lại đạo Công Giáo và cũng đưa cả xứ sở về cùng đạo Chúa. Năm 1386, Jagiello lên làm vua kế vị vua Louis, ông cho xây dựng ngôi thánh đường bằng gạch và đá tại tu viện Jassna Gora biến nó thành một đền thờ xinh đẹp vững vàng thay thế cho ngôi nhà thờ nhỏ bằng gỗ trước kia.

 

Ba thế kỷ tiếp theo sau đó, khu vực này được tăng cường và canh phòng hết sức nghiêm ngặt khiến nó trở thành một thành phố hành hương an toàn.. Năm 1655, thành phố Czestochova bị quân chống Đức Giáo Hoàng từ Thụy Điển đến vây hãm nhưng bọn chúng đã bị đẩy lui. Rồi một năm sau đó, Đức bà thành Czestochova được tuyên xưng làm “Nữ Vương Ba Lan” và trở thành một biểu tượng cho tự do tôn giáo của quốc gia này.

 

Hai thế kỷ kế tiếp là những thời kỳ khốn khó gian nan cho thành phố Czestochova. Những người Nga đã chiếm đoạt nó năm 1806. Năm 1813, Nga hoàng chiếm lấy bức tượng họa và đem nó về thành phố St Petersburg, tức là Leningrad ngày nay.

 

Ngôi đại giáo đường hiện thời đã được xây dựng năm 1644, đến năm 1702, tháp chuông đồ sộ cao 344 bộ Anh được xây dựng thêm, ngự trị nguy nga trên bầu trời thành phố. Năm 1717, Đức Giáo Hoàng Clemente XI đã cho làm lễ phong tước hiệu vương quyền và vương miện cho bức tượng với các nghi thức long trọng. Ngày nay số người hành hương đến kính viếng Đền thánh rất đông. Trong những thập niên trước đây, mỗi năm đã có hơn một triệu người từ nhiều nơi trên thế giới đến tu viện Jasna Gora để kính viếng Đức Mẹ Ba Lan.

 

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị là người Ba Lan đầu tiên đã được lên ngôi giáo hoàng và đã đến hành hương đền thánh này vào năm 1979, sau khi vừa mới nhậm chức và bắt đầu thực thi sứ mệnh cao cả của ngài. Nhân dịp đại lễ kỷ niệm 600 năm ngày Đức Bà Đen đến ngự trị tại Czestochova năm 1982, ngài định đến tham dự nhưng vào giờ phút chót, không đến được. Hàng triệu người Ba Lan và những tín đồ Thiên Chúa giáo từ nhiều nơi trên địa cầu cũng đổ xô về mừng kính vào ngày đại lễ này, biểu dương một đức tin hùng mạnh, điều mà người ta ít nhận thấy trong một quốc gia Đông Âu vào giai đoạn đó.

 

Lịch sử oai hùng của bức tượng Đức Bà thành Czestochova cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa luôn luôn ở cùng chúng ta trong những lúc bị thử thách, nguy nan khốn khó và bị bách hại cũng như trong giờ phút hoan hỉ vui mừng. Trải qua hàng bao thế kỷ, chúng ta có thể noi theo quốc gia Ba Lan đi tìm kiếm tình thương của Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria, khám phá và nhận thức rằng các Ngài vẫn hằng trợ giúp, nâng đỡ chúng ta và ban cho chúng ta sự can đảm, dũng mãnh và niềm tin, niềm hy vọng để vượt thắng mọi đau khổ thử thách.

 

Từ trước đến nay rất nhiều phép lạ và ơn nhiệm mầu đã được ban cho nhiều người thành tâm thiện chí trên thế giới đã đến thăm viếng cầu nguyện và có lòng sùng kính Đức Mẹ Ba Lan.

 

Trần Thế Miên 63