Một thời Sao Biển – phần 3 (Nguyễn Văn Độ 61)

Một thời Sao Biển 

(phần 3)

Kể chuyện Sao Biển xưa mà không nhắc chuyện trộm dừa thì chẳng khác nào ăn ốc mà thiếu chén nước mắm gừng! Vậy xin mời:

Khi mới xây TCV, ngoài những cây dừa bung, dừa lữa, hầu hết trồng theo chu vi khu đất CV, các đấng còn nghĩ nên trồng thêm dừa xiêm gần nhà và dọc theo các con đường, cho mát mẽ, thơ mộng, vừa để làm nước giải khát đặc sản vừa không nguy hiểm cho các chú khi trời gió to. Kết quả là không có trái nào mà ăn cả!

Vì dừa xiêm nằm ngay tầm tay, dễ hái nhanh như chớp và chỉ cần đập mạnh một phát xuống là có nước uống ngay-đôi khi còn chua lè vì non quá. Món nghề này thì phải xin đà̀n anh truỵền cho, chứ đàn em lính mới thì còn nhát lắm. Cha QL thời nào cũng bán dừa lớn già, theo hợp đồng, cho một cơ sở nấu dầu dừa, xà phòng ở Nha Trang. Họ leo dừa, hái, tróc vỏ, đập dừa vô cùng chuyên nghiệp. Các chú xem và học bắ́t chước. Vỏ dừa, lá dừa còn là nguồn củi đốt bổ̉ túc quan trọng cho nhà bếp. Hái trộm dừa lớn mới xứng là “chiến tích”.

Hái trộm dừa lớn-tạm gọi là trộm đã, xin phép bàn sau- là một chiến tích thật sự, vì không phải chú nào cũng làm được. Nếu chỉ biết hái dừa xiêm thì mớ́i là tay mơ thôi. Tấ́t nhiên không dám đề cập tới những chú “tốt lành” hoặc không thích ăn dừa. Phải lên kế hoạch thật tỉ mỉ: chọn cây nào, giờ nào, ai hợp tác, mang đi đâu, bổ chổ̉ nào, lúc nào.v.v. Cái khó không phải là hái mà là bổ̉ vỏ dừ̀a làm sao với dụng cụ tự chế rất đơn sơ, thậm chí có anh dùng một cục đá, y chang người cổ đại của thời k̀ỳ đồ đá. Có anh kiếm được một lưỡi dao phay cất kỹ, hoặc chế được một cây sắt làm đồ nghề riêng, ai mượn thì ph̉ải biết điều chia chác. Vào giờ hành sự, không sợ các cha giáo, các thầy GT, vì đã nghiên cứu kỹ, nhưng sợ nhất-vì không lường trước được- là con chó berger của cố Lành.

Giờ đây, sau 50 năm dòng đời trôi nỗi, xin phép lạm bàn khía cạnh đạo đức của chuyện hái dừa mà bản thân tôi gọi là một “thói quen không đẹp” của thời tuổi trẻ đáng yêu và tội nghiệp. Tội nghiệp vì giữa cao điểm của tuổi ăn tuổi lớn, nhu cầu ăn vặt là lẽ thường tình. Có gì để nhấm nháp thêm ngoài dừa. Những chú quê ở xa thì có gì để̉ ăn. Đi dạo vào quán mua gì thì cũng là lỗi luật nếu bị thầy GT bắt gặp. Vả lại, trong túi chắc gì đã có tiền. Nhớ các chú quê Cây Vông, thỉnh thoảng chia cho chút “ường en” để ăn với cùi dừa già là khoái khẩu nhất. Bởi vậy, hầu hết các cha giáo đề̀u thông cảm, tha thứ và trong thầm tâm, rất thương hại các chú hái dừa. Nhìn lại hôm nay, chúng ta và nhất là con cháu ta đâu có chịu nhịn những đồ ăn vặt bán đầy đường, hay ở cổng trường. Trên bàn học hay bàn làm việc lúc nào chẳng có sẵn snacks, chips, nuts…Xin Chúa tha tội và cám ơn những ai đã tha thứ cho chúng con.

Xin phép kể thêm một chuyện nhỏ có thật của TCV Quy nhơn, do họ thuật lại -chỉ với một mục đích  cho chúng ta thấy cái “tệ nạn” này là rấ́t phổ biến-: Một chú lỡ dại hái chuối của các dì nhà bếp. Cha BT phạt ba ngày liên tiếp, chú ấy phải đeo sau lưng cái quày chuối nhỏ trong giờ chơi 15 phút buổi sáng. Trời nóng nên chuối rất mau chín. Các bạn đi theo sau cớrứt từng trái một để ăn. Đến cuối ngày thứ ba thì chỉ còn lại cái cồi trơ trụi. Chú “tội nhân” lễ mễ mang cái cùi chuối  vào trình cha BT:”Thưa cha, các bạn rứt hết chuối rồi ạ”. Cha BT nhì cái cùi chuối muốn phì cười, nhưng khi thấy ánh mắt u buồn và hối hận của đứa con bé bỏng tội nghiêp, ngài âu yếm xoa đầu bảo:”Khi nào con thèm gì cứ nói cho cha biết, thôi con đi học bài đi”.

Kể chuyện “xấu” của kẻ khác mà giấu kín chuyện mình thì quả thật không Fair Play chút nào. Vậy xin kể chuyện của tôi: Năm 1965 tôi học Cinquième, một anh lớp Quatrième (tạm gọi anh X vì không xin phép được để nêu tên) không biết ưng tôi điểm gì mà bí mật mời tôi tham gia một phi vụ hái dừa vào đêm khuya, tôi nhận lời làm “trợ tá” vì chẳng biết gì về kế hoạch cả. Các tình tiết bây giờ nhớ lại giống y như một chuyến “vượt biên”sau 1975: Khoảng 11, 12 giờ đêm, X đánh thức tôi dậy, hai đứa rón rén đi xuống cầu thang, X rút ra một que sắt mỏng, gạt cái chốt cửa sắt lên và nhẹ nhàng đẩy cửa sắt vừa đủ để chui ra (không cần chìa khóa, từ trong ta có thể mở bằng cách này, bên ngoài thì không thể) rồi khép hờ không khóa. Hai đứa xuống cầu thang, cẩn thận nhìn dọc hành lang về phia trái để xem “Bà” Berger có nằm phía xa không. Đểtránh tầm nhìn của “bà”, hai đứa xuống đất đi về phía Nhà Nguyện, vòng ra sau phòng thánh, tiến về cây dừa lữa gần nhà ông Võ Sĩ. Anh X leo lên khéo léo, nhanh nhẹn đạp rớt ba trái. Tôi ngồi dưới sợ hãi vì tiếng động, tự nhủ tại sao mình lại liều lĩnh thế. Lượm ba trái dừa khá nặng, ì ạch mang về kẻ hở giữa hai ô bạn thờ phụ phía sau Nhà Nguyện, kín đáo và an toàn để ngồi lột dừa. X có mang theo một lưỡi rựa gãy, tuy khó khăn nhưng cuối củng cũng thành công, không quên cẩn thận vứt vỏ vào đám cỏ tranh. Mang dừa đã lột và đã đập bể, chúng tôi lên cầu thang, chui vào giường ngủ ngon lành. Hôm sau, các bạn nghe biết chuyện, vì tưởng chúng tôi leo máng xối lên, xuống, tỏ ra vô củng thán phục. Tôi thầm nghĩ trong bụng: chắc các bạn nghĩ chúng tôi giỏi không kém hai con chuột leo lên chuồng gả ăn cắp trứng và mang về tổ được! Xin Chúa tha tội.

Vào năm 1967 thời cha Vĩnh làm QL, có xãy ra chuyện kẻ trộm leo lên nhà ngủ chú lớn khiêng vali của Ánh 62 xuống, tìm chẳng có gì đáng của, đáng công, bèn vứt lại. Chúng tôi bày chuyện xin phép thầy GT cho thức canh trộm. Thế mà một hôm chúng tôi cũng bắt được một anh “trộm dừa” chính hiệu. Anh bị bắt quả tang đang ngồi trên cây dừa kề phòng cha Pouclet, sát hàng rào, dưới đất có khoảng chục trái. Anh thanh niên tỏ ra hối hận và lo sợ. Chúng tôi vâng lời cha QL cho anh ra về, cảm thấy mình dường như đã thực hiện được một điều gì tốt lành tương tự trong phim Les Misérables (GM Myriel tha thứ và che chở cho Jean Valjean).  Đến đây xin phép chấm dứt chuyện hái dừa.

Dù sống trong TCVSB lâu hay mau, chúng ta đều cảm nhận được sự bình an về mọi phương diện. Chắc chắn đó là do sự che chở của Mẹ SB. Trước hết xin nói về bệnh tật và tai nạn.

Năm 1961 khi lớp chúng tôi vừa nhập học được mấy tháng thì Dì Tiềm qua đời. Các chú không biết rõ và cũng không đưa đám tang. Nhưng nghe đâu dì mắc bệnh nan y đã lâu. Ngoài ra, trong suốt 18 năm tồn tại không có trường hợp tửvong nào ngay trong TCV, dù các chú đang thời tuổi trẻ rất hiếu động, lại tắm biển thường xuyên, đi dạo xa ,leo núi, vượt đồi và súng đạn mỗi ngày một nhiều hơn theo cuộc chiến. Địa thế của TCV thật lý tưởng, an toàn trong chiến tranh.

Nói về bệnh tật thì cũng lạ: Hầu như ai cũng chỉ mắc bệnh thời tiết xoàng xĩnh. Các cha giáo phụ trách y tế rất tận tâm, nhưng các ngài thật ra cũng làm thầy thuốc kiểu passe-partout. Dì Nữ có tham gia chích thuốc, nhưng tay nghề có lẽ cũng ngang y tá làng! Cha Nédelec phụ trách y tế lâu nhất, nghe đâu Bố của ngài là Bác sĩ.

Các bệnh thời tiết hoặc theo mùa như cảm cúm, đau mắt đỏ.v.v.tất nhiên dễ bùng phát trong cuộc sống nội trú. Có những năm số các chú nằm nhà bệnh khá cao, ảnh hưởng sinh hoạt chung và các cha pḥu trách y tế cũng vất vả nhiều. Xui xẻo đôi khi nhà bếp cho các chú ăn món gì hơi “nhột bụng” làm Tào tháo rượt chạy cả đêm. Toilet trên lầu lại không nhiều nên gây ra nạn “kẹt xe” dỡ khóc dỡ cười. Các cha giáo ở gần cầu thang cũng chịu cực hình, không ngủ được vì tiếng động liên tục trong đêm. Cha Lagrange đã từng than phiền:”Ils tireaient la flotte toute la nuit!”.

Có khi đi dạo chiều thứ Tư, leo núi Sạn, Núi Trại Cùi hoặc xa hơn,vòng ra đường xe lửa phía cầu sắt Chợ mới quay về Tháp Bà, các chú hái trái rừng gọi là trái mắm, bú dù…ăn về đau bụng bị cha Ban vừa cho thuốc vừa mắng cho, chừa luôn.

Tìm địa điểm đi dạo chiều thứ Tư là sáng kiến của mỗi thầy GT. Ngoài những chuyến leo núi vừa kể trên, người dân vùng Thanh Hải, Đồng đế đã quá quen mắt với cảnh một hàng dài các chú TCV áo trắng đóng thùng quần xanh lao xao, hôm thì đi về phía này, bữa thì đi về hướng khác. Những địa điểm quen thuộc nhất là Hòn chồng, Tháp Bà, Sân bắn trường HSQ, Đường đệ, nơi có “dây kinh dị, dây tử thần” có bãi tập bắn của các khóa sinh HSQ mà các chú được tiếp cận khá gần gủi. Hoặc với chủ đích là đá banh hay thi đấu, sẽ hướng về hai sân bóng: sân  Lasan nằm dưới chân đồi của Thánh kinh Thần học viện Tin lành hay sân công cọng của Huyện Vĩnh xương nằm bên kia QL1. Cuối buổi đi dạo là ra tắm biển, trừ mùa đông nước lạnh và trời mau tối. Như thế, khi ra đi dạo thì chú nào cũng áo quần tươm tất, khi ra về từ sân banh hoặc bãi biển thì áo quần đã vắt vai chỉ còn lại chiếc quần đùi như bác nông dân”Hai lúa” thoái mái và vô tư.

Nhớ riêng lớp 61 chúng tôi có hai tai nạn gãy chân: Bạn Đạt SG trượt chân trên Núi Sạn và Huờn (Hòn Thiên) đá banh bị chèn giữa hai chàng Goliat của lớp trên là anh Sang và anh Kêu- người Bana, Kontum.

Trong thời gian chữa gãy xương cho hai anh bạn này, chúng tôi được lần đầu nghe tiếng Ông Ba Thăm-Hà Dừa và cũng là Bố của Hải SB̉68 sau này. Hai anh này tuy gãy chân nhưng lại nhanh chân hơn các bạn để sớm về chầu Chúa. RIP.

Xin nói thêm về các AE người Bana cựu SB: Năm 1960, 1961 Đức cha Seitz ĐP Kontum gửi xuống TCVSB các anh Đin, Kêu, Pho (60) và Lơ, Hlan (61) để học chương trình Pháp. Các anh là những người rất dễ mến, đơn sơ, hồn nhiên, vui tính, thích đá banh và đá cũng khá. Các cha, các thầy rất nâng đỡ. Bạn cùng lớp sống hoà đồng yêu thương. Bỗng đột ngột vào khoảng năm 1963 cả năm anh ra đi không trở lại nữa và biệt tin từ đó. Có lẽ các anh đi theo tiếng gọi của Núi Rừng. Ngẫm lại từ trước cho tận bây giờ, ươm trồng được một ơn gọi cho người thiểu số Tây nguyên thật là khó và quý hiếm. Những năm 1971-1974 tại ĐCVXB Huế, có Thầy Réné Đường rất hiền lành dễ thương. Ai cũng hy vọng, nhưng rồi đùng một cái, thầy xin về lại “Sóc Bombo” giã gạo vui hơn!

Tất nhiên không ít những anh em SB-còn tu hay đã xuất-sau thời gian sống trong TCVSB đã mắc bệnh nan y, bị tai nạn, bị thương hoặc từ trần vì chiến tranh hay do nhiều nguyên nhân khác. Trong số đó, xin được phép nhắc đến cái chết đau thương của anh Hồ xuân Lương lớp 61 trong vụ thảm sát Tết Mậu thân tại Huế. Và tiếc thương anh Phan đình Hoà 63-con của Bác Hiển, anh của Phan đình Thuận 66- tử nạn trên đèo Sông Pha vào năm 1970(?).  Cha Mai khắc Cảnh, cha xứ Mêpu (RIP 1965) và anh Thúy SB63, thầy giúp xứ Tánh Linh (RIP1972) bị giết hại khi đang làm nhiệm vụ. Cha Bửu và cha Kinh mất sau 1975 trong những hoàn cảnh nhiều ẩn khuất!

Hoặc như thầy GT đầu tiên của chúng tôi, thầy Đào trí Cầu-quê quán Kim Ngọc, Phan thiết- sau khi xuất tu, thầy vào trường SQ Thủ Đức, ra chiến trường sôi động và hy sinh tại Quận Thiện Giáo vào khoảng năm 1964. Thầy có nhiều tài, Việt văn khá, đá banh giỏi, hơi nóng tính, nhưng thật sự thầy để lại trong ký ức non nớt của chúng tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp khó phai-kể cả câu tiếng Pháp thầy buộc chúng tôi phải nói khi xin phép đi ra ngoài làm vệ sinh cá nhân: “Monsieur le surveillant, donnez moi, s’il vous plait, la permission d’aller au cabinet”.  ĐHSB 55 năm sẽ nhớ đến tất cả những người thân yêu đã sớm “bỏ cuộc chơi” để ra đi trước chúng ta.

Cuộc sống của TCVSB tương ̣đối bình an với địa điểm lý tưởng, nhưng không tránh khỏi những tác động của thời sựnhiễu nhương trên đất nước. Tháng 11/1963 các chú được thông tin khá đầy đủ về cuộc đảo chánh và cái chết của hai anh em TT Diệm -hồi đó có cái radio là văn minh lắm. Cha Ban là người quan tâm và lo lắng, đau buồn nhất. Vì khi ấy ngài đã là LM tuyên úy Trường HSQ với hai mai vàng chói sáng và bộ quân phục lúc nào cũng láng cóng, làm cho ngài thêm đẹp trai, oai vệ. “Thần tượng” của ngài là tướng Tôn thất Đính. Chúng tôi thì chẳng hiểu gì, chỉ thấy ngài buồn khi thần tượng sụp đổ: Tướng Đính theo CM lật TT Diệm, người đã tin tưởng ông! Thời đó chúng tôi thấy cha Ban cùng Thầy Sơn (anh của Đức ông Phong) và NS Anh Linh (Thanh Hải) thường cùng đi với nhau trên chiếc xe Jeep, ra vào TCV và đi làm lễ đây đó. Thỉnh thoàng TCV cần xe chở các chú đi xa, cha Ban có thể mượn được xe GMC của trường HSQ. Thế là các chú mừng lắm.

Cuối năm 1963, Công đồng Vatican II khai mạc. Khi Đức GM Piquet từ Rôma về, ngài nói chuyện cho các chú nghe. Sau đó Cha BT cũng mời một cha dòng Phanxicô dạy về CĐ. Chúng tôi nghe quen tai những từ như Hiến chế Lumen Gentium, Sắc lệnh v.v. Tuy nghe như “vịt nghe sấm”, ch́úng tôi biết rằng có điều gì mới mẻ lắm đang diễn ra trong Giáo Hội. Rõ ràng nhất là sau đó các cha làm lễ quay mặt xuống, dùng tiếng Việt và không còn sử dụng những ngăn bàn thờ riêng cuối Nhà Nguyện nữa.

Chính trường Việt nam đi vào giai đoạn bát nháo, chiến tranh ngày một khốc liệt hơn, và thời thanh bình đã trôi vào dĩ vãng, chúng tôi chẳng thèm theo dõi nữa, nhưng không thể tránh khỏi hệ lụy. Năm 1965,1966 bãi tắm Đồi dương êm ả của chúng tôi phải chứng kiến những cuộc “đổ bộ” của lính Mỹ và Đại Hàn. Tò mò đứng xem trong tâm trạng ngao ngán, chúng tôi thấy hoàn toàn khác cuộc đổ bộ của quân đồng minh vào Normandie tháng 6 năm 1944 mà chúng tôi học trong môn lịch sử. Khoảng năm 1967, các chú cũng được BCH quân đội Đại Hàn mời lên núi gần đèo Rù Rì thăm doanh trại của họ. Chổ ấy sau này là nhà máy Dệt Nha Trang.

Một buổi sáng mùa Thu năm 1965, trong giờ chơi ngắn, chúng tôi đang đứng ở hàng rào bờ biển, thấy hai chiếc máy bay B57 bay thấp về phía biển Nha trang. Một loạt đạn từ chiếc này bắn vào chiếc kia. Máy bay bị nạn bị gió thổi ngược vào, sau khi phi công nhảy dù ra, rớt xuống ngay trước Rạp Tân Tân, làm chết nhiều người trên phố. Trong số đó có hai người con gái của ông lãnh sự Pháp tại NT. Tai họa này làm các cha giáo MEP đau buồn, chê trách hai phi công Mỹ. Vài tuần sau, khi đi dạo phía sau Tháp Bà, gần Hòn Đá Lớn, chúng tôi thấy hai ngôi mộ mới, một bia có tên là Juliette. Chúng tôi biết đó là nạn nhân của vụ rơi máy bay thảm khốc.

Năm 1966 ĐGM Marcel Piquet qua đời, một cái tang lớn cho ĐP. Các chú tham dự tang lễ được tổ chức long trọng và ngài được chôn cất tại chân núi Nhà thờ Đá. Sang năm 1967 mọi người hoan hỉ đón chờ ĐC FX Nguyễn văn Thuận từ Huế vào nhậm chức GM Nha trang, trong khi  lớp 60,61 chuẩn bị theo cha Phú, cha Larroque ra trường Thiên Hựu học Seconde, Première.

Mức độ ác liệt của cuộc chiến thể hiện rõ trong hành trình về quê và tựu trường của các chú ở xa như Phan thiết, Bình Tuy. Không còn xe lửa nữa, chúng tôi phải đi xe đò, thuê vào tận CV đón các chú. Trên đường đi gặp nhiều cảnh đổ nát, đào bới, đắp mô và bị chặn xét hỏi nhưng nhờ là học sinh còn trẻ nên được cho đi. Vào khoảng năm 1966, xe đò chỉ còn đi được đến Phan Rí. Lần đầu tiên chúng tôi gồm khoảng ba chục người, vào tới Phan Rí Cửa, vì tới tối thuỷ triều lên, ghe mới ra cửa được, nên ghé vào Nhà thờ Phan Rí tá túc. Cha Hỉ tiếp các chú với tất cả tình thương yêu cha con. Ngài dâng lễ và cho dọn bữa cơm tối để các chú ăn trước khi xuống thuyền. Không bao giờ quên được vị linh mục nhân từ ấy. Thời gian đầu, ghe thuyền còn nhỏ, về sau thì có thuyền lớn hơn ̣để kinh doanh có tổ chức. Thuyền mới xuất bến thì anh nào cũng hí hửng, vài giờ sau thì ói ra cả mật xanh mật vàng, nằm la liệt như người sắp chết. Tới gần sáng, khi nhìn thấy ́anh điện xa xa của cây cầu Phan Thiết mới biết là sắp tới bến. Nghĩ lại, nếu chằng may thuyền đắm, thì chắc chắn chúng tôi chẳng còn ai sống sót.

Mẹ ơi, Mẹ đã che chở chúng con qua biết bao nguy biến, để hôm nay, sau trên dưới 50 năm cuộc đời truân chuyên, trôi nỗi, kẻ mất người còn, chúng con còn có được diễm phúc, rủ nhau CÙNG VỀ BÊN MẸ, hòa chung lời ca Ave Maria cảm tạ Mẹ, Mẹ Sao Biển kính yêu.

Viết mừng Hội ngộ 55 năm Sao Biển

Sacramento, Tháng 7-2013

Nguyễn Văn Độ sb61