Những người già (Nguyễn kim Ngân 59 chuyển ngữ)

Những người già

 

Theo phong tục tốt đẹp của giáo xứ Hà Dừa, sau Thánh Lễ Minh Niên ngày mồng Một Tết, bà con giáo dân năm nào cũng mừng tuổi Chúa, mừng tuổi Cha quản xứ, rồi cha mừng tuổi lại bà con giáo dân. Cuối cùng, giáo xứ tặng quà cho các cụ ông cụ bà trên 80 tuổi.. Người già là tấm gương  tốt đẹp cho con cháu về đời sống đức tin trong mỗi giáo xứ. Xin gửi tặng anh em bản dịch này để hiểu thêm về tình cảm của những cụ ông cụ bà. KN 59.

 

“ Một bức thư phải không bố Azan?

Vâng, thưa cậu… thư đến từ Paris.

Bố Azan nhân hậu hết sức tự hào về việc bức thư đến từ Paris..Chứ không phải tôi. Có điều gì đó cho tôi biết rằng lá thư Paris từ đường Jean Jacques Rousseau này xuất hiện trên bàn tôi thật bất ngờ từ sáng tinh mơ, nó sẽ làm cho tôi mất cả ngày làm việc. Tôi không lầm đâu, tốt hơn các bạn hãy xem thử đã:

 “Cậu phải giúp tớ một việc này nhé. Cậu sẽ đóng cửa cối xay gió một ngày và đi ngay đến Eyguières nhé… Eyguières là một thị trấn lớn nằm cách nơi cậu ở độ ba hoặc bốn dặm – chỉ là một cuộc đi dạo thôi mà. Khi đến nơi, cậu sẽ hỏi thăm ngôi nhà dành cho những cô bé mồ côi. Căn nhà đầu tiên phía sau cô nhi viện là một căn nhà thấp với những cánh cửa sổ sơn xám và một khu vườn nhỏ phía sau. Cậu sẽ vào mà không cần gõ cửa – cửa chính lúc nào cũng rộng mở – và khi vào nhà, cậu hãy kêu lên thật to: “Chào, xin chào những con người trung hậu!  Cháu là bạn của Maurice đây…”Cậu  sẽ gặp hai ông bà già nhỏ con, ồ, nhưng mà già, thật già, cực kì già, ông bà cũng sẽ mở rộng vòng tay ôm choàng lấy cậu từ trong ghế bành và cậu cứ ôm lấy họ thay cho tớ, với cả tấm lòng của cậu, giống như họ thuộc về cậu. Rồi cậu cứ chuyện trò đi,  họ sẽ nói với cậu về tớ, chỉ nói về tớ mà thôi; hai ông bà sẽ kể cho cậu nghe hàng ngàn câu chuyện không đầu không đuôi, nhưng cậu cứ lắng tai nghe thôi và đừng cười nhé…Cậu đừng cười đó nghen?…Đó là ông bà nội của tớ, hai con người mà tớ phải hi sinh suốt cả đời và họ cũng không gặp lại tớ từ mười năm rồi đấy…Mười năm, quả là một khoảng thời gian dài! Nhưng cậu nghĩ sao! Còn tớ, Paris luôn níu kéo tớ; còn họ, đã đến lúc gần đất xa trời rồi…Ông bà của tớ đã cao tuổi, nếu có đến thăm tớ, chắc ổng bả sẽ ngã quỵ trên đường đi thôi…Thật may quá, cậu sống ở đó, ông chủ cối xay gió yêu quí của tôi ơi, và trong khi ôm chầm lấy cậu, chắc hai ông bà tin là đang ôm chầm lấy tớ đấy…Tớ thường nói chuyện với hai ông bà về chúng mình và về tình bạn thân thiết mà…

 

Quỉ tha ma bắt cái tình bạn! Ngay buổi sáng hôm đó, thời tiết thật tuyệt vời, nhưng nó chẳng có giá trị gì cho việc đi đây đi đó: quá nhiều gió nồm và ánh nắng chói chang, một ngày đúng nghĩa ở miền Provence. Khi bức thư oái ăm này đến, tôi đã chọn cho mình một nơi đầy nắng ở giữa hai ghềnh đá và mơ mộng ở đó suốt cả ngày giống như một con thằn lằn hớp lấy ánh sáng và lắng nghe tiếng thông reo vi vu…Cuối cùng, ông bạn lại muốn làm gì đây? Tôi vừa đóng cửa cối xay gió vừa càu nhàu, tôi nhét chìa khóa phía dưới lỗ mèo ra vào. Cầm lấy gậy, ống léo, thế là tôi lên đường.

Tôi đến Eyguières vào lúc hai giờ chiều. Ngôi làng vắng lặng, mọi người đang ở ngoài đồng. Trong hàng cây du bụi đóng trắng xóa bên đường, những chú ve sầu kêu ra rả giống như đang ở giữa miền Crau. Trên quảng trường tòa thị chính, một chú lừa đang phơi nắng, vài chú chim bồ câu bay lượn trên đài phun nước của giáo đường, nhưng chẳng có ai chỉ cho tôi biết cô nhi viện ở đâu. Thật may mắn, thình lình một bà tiên già hiện ra cho tôi, bà đang ngồi và cuốn chỉ trong góc cửa ra vào; tôi nói với bà thứ tôi cần tìm; vì bà tiên này rất có quyền lực, bà chỉ cần giơ cao que cuốn sợi: tức khắc cô nhi viện của các cô bé mồ côi sừng sững hiện ra trước mắt tôi như có phép thần…Đó là một ngôi nhà rộng lớn âm u sơn màu đen, ngạo nghễ phô bày phía trên cánh cổng hình gân cung một cây thánh giá cổ bằng đá cát kết màu đỏ với một chút ít tiếng la tinh bao quanh. Bên cạnh ngôi nhà này, tôi còn nhìn thấy một ngôi nhà khác nhỏ hơn với những cánh cửa sổ màu xám, khu vườn nằm phía sau…Tôi nhận ra nó ngay tức khắc, tôi liền bước vào không cần gõ cửa.

Tôi sẽ gặp lại suốt cả đời tôi cái hành lang dài hun hút mát mẻ và tĩnh lặng này, bức tường sơn màu hồng, khu vườn nhỏ run rẩy ở sâu bên trong qua một bức mành màu sáng, và trên tất cả các bức tranh vẽ hoa, và những cây đàn vĩ cầm bạc màu. Hình như tôi đang đi vào nhà của một vị pháp quan luống tuổi nào đó sống vào thời Sedaine…Cuối hành lang, về phía trái, qua một cánh cửa hé mở, người ta nghe có tiếng tích tắc của một chiếc đồng hồ treo tường lớn và giọng đọc của một đứa trẻ, nhưng của một đứa trẻ ở trường vừa đọc vừa ngập ngừng ở từng nguyên âm:

BẤY…GIỜ…THÁNH…I..RÉ..NÉE…LA…LỚN…TÔI…

LÀ…BỘT… MÌ…CỦA…THIÊN CHÚA…TÔI… PHẢI.. BỊ.. NGHIỀN.. NÁT… BỞI.. RĂNG… CỦA…NHỮNG… CON… THÚ…NÀY… Tôi tiến lại gần bên cửa chính và đưa mắt nhìn vào…

Trong không gian yên tĩnh tranh tối tranh sáng của một căn phòng nhỏ, một cụ già với đôi má hồng hào, da nhăn nheo đến tận mút đầu những ngón tay, đang ngủ say trong chiếc ghế bành, miệng há to, hai bàn tay đặt trên đầu gối. Dưới chân cụ, một cô gái nhỏ mặc y phục màu xanh lơ – chiếc áo choàng rộng có mũ trùm nhỏ, đồng phục của những cô bé mồ côi – đang đọc tiểu sử của thánh Irénée trong một quyển sách lớn hơn cô…Bài đọc lạ lùng này đã tác động lên khắp căn nhà. Cụ già đang ngủ trong ghế bành, những con ruồi  trên trần nhà, những chú chim hoàng yến trong lồng mắc trên cửa sổ đằng kia. Đồng hồ treo tường lớn đang ngáy tích tắc tích tắc. Trong khắp căn phòng chỉ còn tỉnh thức một dải ánh sáng lớn  rọi thẳng xuống giữa những cánh cửa sổ khép kín. Dải ánh sáng tràn ngập những tia nắng sinh động và những  điệu van-xơ  li ti…Ngay giữa không gian êm ả này, cô bé vẫn tiếp tục bài đọc với giọng trịnh trọng : TƯC.. THÌ… HAI.. CON.. SƯ.. TỬ… NHẢY.. BỔ.. VÀO.. NGÀI… VÀ.. CẮN.. XÉ.. NGÀI… Ngay chính lúc đó tôi bước vào…có lẽ những con sư tử của thánh Irénée nhảy bổ vào trong căn phòng sẽ không gây nhiều nỗi sợ hãi bằng tôi. Một biến cố bất ngờ thực sự! Cô bé kêu lên một tiếng, quyển sách to rơi xuống, những chú chim hoàng yến, những chú ruồi giật mình thức giấc, đồng hồ treo tường reo lên, ông cụ bất ngờ ngồi dậy, hốt hoảng, còn chính tôi lại hơi bối rối, tôi dừng lại trên ngưỡng cửa và kêu lên thật to:

“Xin chào, xin chào những con người phúc hậu! Cháu là bạn của Maurice đây!

Ôi! Ước chi các bạn nhìn thấy cụ già phúc hậu vào lúc này, ước gì bạn nhìn thấy cụ chạy đến dang rộng vòng tay ôm chầm lấy tôi, siết chặt bàn tay tôi rồi chạy cuống cuồng vào trong phòng và la thật to:

“Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi!

Toàn bộ vết nhăn trên khuôn mặt cụ đều cười. Mặt mày đỏ lửng. Cụ lắp ba lắp bắp:

“ À! Chào cháu…à! Chào cháu!

Rồi cụ đi vào tận bên trong réo um cả lên:

“ Bà Mamette ơi!

Một cánh cửa mở ra, có tiếng chân bước rón rén trong hành lang…Đó là bà Mamette. Không có gì xinh xắn như bà cụ già nhỏ con này với chiếc mũ trùm vỏ kén, chiếc áo dài nữ tu sĩ carmel và khăn thêu cầm trên tay để đón tiếp tôi theo phong cách cổ điển…Thật trìu mến: Cả hai ông bà giống hệt như nhau. Với một trò khéo tay và những mũ trùm vỏ kén màu vàng, có lẽ cụ ông cũng có thể gọi là Mamette. Có lẽ bà cụ Mamette thực đã khóc thật nhiều trong cuộc đời, nên làn da của bà còn nhăn nheo hơn làn da của ông. Cũng giống như cụ ông, cụ bà cũng có cô bé cô nhi viện hầu hạ bên cạnh. Đó là cô bé chăm sóc mặc áo choàng màu xanh da trời không bao giờ rời xa cụ bà; cứ nhìn thấy những người già được các em cô nhi này bảo vệ khiến chúng ta có thể hình dung một điều gì cảm động nhất.

Khi bước vào, cụ Mamette đã bắt đầu chào tôi thật trịnh trọng, nhưng chỉ cần một lời, cụ ông  đã cắt ngang sự cung kính của bà:

“ Đây là bạn của Maurice…”

Thế là bà cụ liền run lên, cụ khóc và đánh rơi chiếc khăn tay, mặt cụ đỏ rần, hoàn toàn đỏ rần, và còn đỏ rần hơn cả cụ ông…Ôi những cụ già! Hình như có một giọt máu trong huyết quản và chỉ cần một chút cảm xúc nho nhỏ cũng làm cho giọt máu ấy dồn lên gương mặt các cụ…

“Nhanh lên, nhanh lên, đem ghế lại đây…cụ bà bảo cô bé.

Hãy mở những cánh cửa sổ ra…” cụ ông nói to với cụ bà.

Rồi mỗi cụ mỗi bên nắm lấy tay tôi, cả hai dẫn tôi đi rón rén đến tận cửa sổ đã mở rộng để nhìn thấy tôi rõ hơn. Mọi người lại gần ghế bành, tôi ngồi giữa hai người trên một ghế xếp, những cô bé áo xanh đứng sau lưng và cuộc hỏi cung bắt đầu:

“ Cháu nó có mạnh khỏe không ? Nó đang làm gì vậy ? Tại sao nó lại không về ? Nó có hài lòng hay không ?…”

Và thôi thì đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, hình như câu chuyện kéo dài hàng giờ liền.

Phần tôi, tôi cố đem hết khả năng để trả lời mọi thắc mắc của họ. Tôi phun ra những chi tiết tôi biết về anh bạn của tôi, đồng thời sáng tác một cách trơ trẽn những điều tôi không biết và nhất là không dám thú nhận chuyện tôi đã không bao giờ để ý xem thử các cửa sổ căn phòng cậu ta có đóng lại kỹ lưỡng hay không hoặc giấy dán tường phòng có màu gì.

“ Giấy dán phòng của cậu ấy ư!… Nó màu xanh lơ, thưa bà, màu xanh da trời sáng, với những vòng hoa…

Thật không? Bà cụ phúc hậu hỏi thật trìu mến; quay sang chồng, cụ nói thêm : “ Đó là một thằng bé rất  trung hậu.”

Ồ, đúng vậy, đó là một thằng bé trung hậu, cụ ông lặp lại một cách nồng nhiệt.

Toàn bộ thời gian tôi nói, giữa hai cụ diễn ra những cái lắc đầu, những nụ cười ý nhị, những cái nháy mắt, những cử chỉ thông cảm, hoặc cụ ông còn xích lại gần để nói với tôi:

“Xin cháu hãy nói to hơn…Bà hơi nặng tai đấy.”

Còn cụ bà thì :

“Xin cháu nói lớn hơn chút nữa!.. Ông không nghe rõ lắm…”

Thế là tôi nâng cao giọng; cả hai cám ơn tôi bằng một nụ cười; trong những nụ cười héo hắt hướng về phía tôi và đang tìm kiếm tận sâu trong đáy mắt tôi hình ảnh cậu bé Maurice của họ, tôi hết sức cảm động khi tìm lại được hình ảnh đó. Một hình ảnh mơ hồ, bị che khuất, hầu như khó nắm bắt, cứ như tôi đang nhìn thấy bạn tôi đứng rất xa trong sương mù và mỉm cười với tôi.

Thình lình cụ ông ngồi nhổm dậy trên ghế bành:

“ Nhưng mà, bà Mamette ơi…tôi nghĩ có lẽ cháu nó chưa ăn sáng!”

Bà Mamette hốt hoảng, hai cánh tay giơ cao :

“ Chưa ăn sáng ư ! Lạy Chúa tôi!”

Tôi lại tưởng hai cụ vẫn còn nói đến Maurice, nên tôi mau miệng đáp cậu bé trung hậu không bao giờ chờ đợi thật muộn vào  giữa trưa mới ngồi vào bàn ăn. Nhưng không, hai người đang nói đến chính tôi; thật là cả một sự náo động khi tôi thú nhận chưa có gì lót dạ :

“ Nào dọn bàn ăn nhanh lên, các cô bé áo xanh! Hãy dọn bàn ăn  ngay giữa phòng, khăn bàn dành cho ngày Chúa Nhật, những chén đĩa có in hoa. Đừng cười nhiều đấy nhé và nhanh lên nào…”

Tôi tin chắc họ đang hối hả vội vàng. Chỉ cần thời gian vài phút là bữa ăn sáng đã được dọn ra.

“ Một bữa điểm tâm nho nhỏ thôi ! Cụ bà Mamette vừa nói vừa dắt tôi đi lại bàn ăn; chỉ một mình cháu thôi đấy nhé…Ông bà …đã ăn sáng rồi.”

Tội nghiệp những cụ già! Bất cứ giờ nào người ta đón tiếp các cụ, các cụ cũng luôn ăn vào buổi sáng rồi.

Bữa ăn điểm tâm của cụ bà Mamette, đó là cốc sữa độ hai ngón tay, những quả chà là và một cái bánh ngọt hình thuyền, một thứ gì đó giống như bánh nhúng: những thứ này có thể nuôi sống bà cụ và những con chim hoàng yến ít nhất trong tám ngày… Đối với một mình tôi, tôi thanh toán một hơi tất cả những thức ăn dự trữ này…Thật biết bao phẫn nộ xung quanh bàn ăn! Trong khi những cô bé áo xanh vừa thì thầm vừa thúc thúc cùi chỏ vào nhau, và đằng kia hình như những chú chim hoàng yến có vẻ nhủ thầm  : “ Ồ ! cái ông kia một mình có thể  ăn hết cả chiếc bánh ngọt!”

Tôi đã ăn trọn vẹn chiếc bánh và hầu như không nhận thấy điều này, vì tôi bận nhìn ngắm xung quanh căn phòng sáng sủa và yên tĩnh này nơi đang phảng phất mùi thơm của những đồ cổ…Nhất là có hai chiếc giường nhỏ mà tôi không thể không để mắt tới. Những chiếc giường này, gần như hai cái nôi, tôi hình dung ra chúng vào lúc tảng sáng, khi cả hai cụ còn vùi mình an giấc dưới những tấm màn lớn có tua viền. Đồng hồ điểm ba giờ. Đó là giờ mà tất cả các cụ đều thức dậy :

“Bà đang ngủ phải không, bà Mamette ?

Không, ông ạ.

Maurice có phải là một thằng bé trung hậu hay không?

Ồ! Phải, đó là một thằng bé trung hậu.

Tôi tưởng tượng ra cả một cuộc chuyện trò như thế, chỉ vì nhìn thấy hai chiếc giường nhỏ của người già được sắp xếp kề cận nhau…

Trong thời gian này, một thảm kịch khủng khiếp diễn ra ở cuối căn phòng, trước tủ đứng. Đó là chuyện cụ ông với tay, trên ngăn tủ trên cùng, thẩu đựng trái anh đào ngâm rượu mạnh đang chờ đợi Maurice từ mười năm nay và mọi người muốn mở ra để chiêu đãi tôi. Mặc cho những lời van xin của cụ Mamette, cụ ông tha thiết tự mình đi tìm những quả anh đào. Leo lên đứng trên một chiếc ghế dựa cùng với nỗi kinh hoàng của cụ bà, cụ ông cố gắng với tay lên cao…Các bạn thấy bức tranh ở đây, cụ ông vừa run rẩy vừa trèo lên, những cô bé áo xanh bám chặt vào ghế của cụ, bà Mamette thở phập phồng phía sau lưng ông, hai tay dang rộng và cả căn phòng phảng phất mùi thơm thoang thoảng của kẹo cam toát ra từ chiếc tủ mở và những chồng đồ vải màu đỏ hoe… Thật thú vị.

Cuối cùng, sau nhiều nỗ lực, cụ ông đã lôi từ trong tủ ra chiếc thẩu quí giá và một cốc kim loại cổ bằng bạc được trau nổi toàn phần, đó là chiếc cốc của Maurice dùng khi cậu còn bé. Cụ ông vớt quả anh đào bỏ vào đầy cốc để mời tôi; Maurice rất thích những quả anh đào. Trong khi chiêu đãi món quả này, cụ ông nói vào tai tôi ra vẻ sành ăn :

“ Cháu thật hạnh phúc vì có thể ăn chúng đấy!..Chính bà nhà tôi đã làm đấy…Cháu sẽ nếm một món ngon tuyệt vời.”

Than ôi! Cụ bà đã làm món anh đào này, nhưng bà lại quên cho đường vào. Không sao cả, khi già người ta thường quên cái này cái nọ. Những quả anh đào của bà thật là kinh khủng, bà Mamette ơi… Nhưng điều đó không ngăn cản tôi chén hết cả cốc mà không nhăn mày nhăn mặt chút nào.

Sau bữa ăn, tôi đứng dậy để chào tạm biệt ông bà. Cả hai cứ muốn giữ tôi lại lâu lâu một chút để nói chuyện về cháu trai phúc hậu của họ, nhưng trời đã về chiều, cối xay gió lại ở xa, tôi đành phải kiếu từ để lên đường.

Ông lão đứng dậy một lượt cùng với tôi:

“ Này bà Mamette ơi, lấy cho tôi cái áo!… Tôi muốn tiễn cháu ấy đến tận quảng trường.”

Chắc chắn trong thâm tâm, bà Mamette cảm thấy thời tiết có hơi mát mẻ thích hợp cho việc đưa tiễn tôi đến quảng trường; nhưng bà không biểu lộ bất cứ cử chỉ nào ra bên ngoài. Chỉ khi giúp ông nhà luồn cánh tay vào hai ống tay áo của ông, một cái áo đẹp màu thuốc lá Tây ban Nha với hàng nút xà cừ, tôi nghe bà cụ đáng yêu thỏ thẻ cùng chồng:

“Mình sẽ không quay về quá muộn phải không?

Về phần ông cụ, cụ tỏ ra hơi lém lỉnh:

“ Hề ! Hề !.. Biết đâu nào…có lẽ..”

Thế là hai cụ nhìn nhau mỉm cười, những cô bé áo xanh cũng cười khi nhìn thấy họ cười, và trong  góc lồng, những con chim hoàng yến cũng cười theo cách của chúng…Giữa chúng tôi, tôi tin là mùi thơm của những quả anh đào đã làm cho tất cả mọi người hơi ngất ngây.

…Màn đêm xuống dần, khi ông cụ và tôi bước chân ra khỏi nhà. Cô bé áo xanh đi theo sau chúng tôi từ phía xa để đưa cụ trở về ; nhưng cụ lại không thấy cô bé. Cụ hết sức tự hào khi lần bước đi bộ bên cạnh tôi, như một người đàn ông thực sự. Bà Mamette, gương mặt rạng rỡ, nhận thấy điều đó từ ngưỏng cửa. Bà vừa nhìn chúng tôi vừa nhí nhảnh lắc đầu như thầm nói : “Lúc nào cũng vậy, ông nhà tôi ơi!… Ông ấy vẫn còn đi bộ được nhỉ.”

Tác giả : Alphonse Daudet (Les vieux)

Chuyển ngữ: Kim Ngân 59